Thứ Năm, 10 tháng 6, 2010

Con Lạc Cháu Hồng- Con Rồng Cháu Tiên!

Việt Phù Kinh
Nhân kỷ niệm 1000 nămThăng Long
Phạm vũ Hội
Ngày đầu xuân 2010- Canh Dần-
Phú luận về Kinh Dịch
-------------------------------------------------------

Người Việt ai cũng nghe nói tới Kinh Dịch? một triết học cổ Phương Đông. Nguyễn Thiếu Dũng cho rằng vị sứ giả hiển hiện trên trống đồng thuần Việt (tc-xưanay tết Mậu Tý). Theo Ngô Tất Tố biên khảo dịch từ sách Tàu- thì Kinh Dịch có từ Phục Hy (thủy tổ giống người da vàng phương Nam) cách nay hàng vạn năm..(?) sau đến Tây Chu (bên Tàu)- khoảng 1100 năm TrCN, Vua Văn Vương mới đặt tên Quẻ- chua ý Quẻ: gọi là Thoán, đến Chu Công (con trai Văn Vương) lại viết thêm ý hào từ... Tiếp đến KhổngTử (551-trCN, nước Lỗ) lại soạn ra 6 thứ: tượng, văn, hệ, thuyết, tự, tạp (+quái)... Người Trung Quốc đã phát triển Kinh Dịch và dụng để Chiêm sự thế theo cách “bói dịch” (tức suy đoán) còn cách dụng như thế nào bớt “tùy biện” đi, thì không có sách nào chỉ một cách tường tận hoặc cố định. Cho nên chỉ cần hai kí ngôn vạch-chấm (dương- âm) mà có thể viết và luận bình ra thiên kinh vạn quyển, rất thú lạ! Bàn về nguồn gốc thì cứ nói thuộc Trung Quốc, nhưng “xét về biến cố lịch sử và hình tích Văn hóa Đông Sơn” thì ta thấy có lẽ xuất xứ gốc Kinh Dịch là của Việt Nam từ thời Hồng Bàng mà Kinh Dịch là bảo khí của Kinh Dương Vương- Càn chi- thủy tổ Việt- Ngài húy là Lộc Tục, anh của Lộc Linh, vốn có tài biến hóa, không tham đất rộng, nhường cho Lộc Linh làm vua phương Bắc, còn mình chỉ làm Vua phương Nam từ Động Đình Hồ dọc Trường Giang trở xuống... (PVH).
-------------------------------------------------------------------------


“Gẫm” trong Sấm vọng lưu truyền
lần theo con tạo gắng tìm tuệ kinh
“cửu thiên”(1) sáng rạng cung đình
“nhật hồng ”(1) sao lại minh minh mù mù
“Cơ trời lâm trận mê đồ” (2),
khốn thay non Việt dị hồ ngửa nghiêng?
**
mấy ai “xét” việc thiên niên
mà không sử sách khui tìm thiện căn
mấy ai hóa giải kiến văn
mà không kiến giải lê dân bụi lầm
dạy rằng “ôn cố tri tân” (3)
nhìn xa thửa lối... nhìn gần thửa đi...
ví như tiếng vọng ầm ì...
chân trời mây phủ liệu thì bão giông..?
ví như mưa gió bịt bùng
nắng xiên... ắt có cầu vồng thất tinh..?
phút giây vẫn bảo là nhanh
triệu năm một khắc vô tình bỏ qua..?
chẳng ai không trẻ đã già
âm dương thái dịch sinh ra trạng hình...
**
mới hay chung? thỉ? ngọn? ngành?
mà nên Bát Quái- Dịch Kinh lưu truyền
đã nghe luận giải thì- phen
ngọn nguồn Kinh Dịch vẫn tìm chưa ra
rằng Kinh Dịch của Trung Hoa
nhưng sao gốc tích lại là Việt Nam?
đem ra kiến giải luận bàn...
tưởng như vớt giải khói loang lam chiều?
nghiêng ly cụng cốc vèo vèo
bao năm trắc dịch suy siêu lạc loài
tầm nhìn đích ngắm đà sai
một ly một dặm chệch ngoài biển xa?
Có gì phân biệt tàu ta
lấy gì để nói của nhà thửa nên?
chiều tà phủ bóng đêm đen
còn kia Chim Lạc lộ then Rồng Vàng!
**
“Nước non từ (from)thuở Hồng Bàng
bể dâu cuộc thế giang sang đổi vần
Trải Đinh Lê Lý Trần giữ nước...
đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
đồ thư một quyển xem nay mới rành
Hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành”(4)
**
lật trang sử chiến dã tranh
mấy ngàn năm trước tung hoành ra sao?
Cho hay sóng vỗ ba đào
màn thâm sơn thủy thấp cao lại về...
Đông nam tây bắc phân kỳ
quốc gia sinh? diệt? quần nghi “dê đàn”...
một Tần khởi (from) đất Hàm Dương
giới biên ngót triệu kilô- vuông sở hùng
kiếm côn bá đạo bão giông
tính kiêm sáu nước(5) vẫy vùng dọc ngang
lập ra Hoa Lục Trung Nguyên
trải bao triều đại thay quyền đọat ngôi
ngàn năm bành trướng chuyển rời
mà nay (to day) rộng lớn gấp mười lần hơn!?
nghề ăn cướp được suy tôn?
ấy nghề ăn cướp chiếm chôm đất- người..!
ngỡ câu khái quát nực cười
mà là sự thực muôn đời đẻ ra...
thưa rằng văm minh Trung Hoa?
thì văn minh ấy chỉ là... lăng xâm!
(bây giờ-present, là một Trung Quốc ngót 10 triệu km2,
dân số~ 1,3tỷ). Biết rằng:
xưa quen bá đạo đồ vương
anh hùng gây cảnh chiến trường mà nên
mấy ai hiểu được căn nguyên
phải là: dân ý- nhân quyền- tự do!
**
lại xem đất Việt người Nam
địa danh Lưỡng Quảng Giang Nam có thừa?
hơn ba triệu kilô-vuông xưa
bao phen loạn lạc gió mưa hoành hành
ngàn năm chống chọi bắc xâm
cụm về cố thủ Cửu Chân- Tống Bình(6)
xưng danh con Lạc cháu Hồng
mười lần nhỏ lại muôn phần xót xa?
(nay-to day, chỉ là một Việt Nam hơn 300 ngàn km2 đất, dân số 80 triệu)
thời gian chẳng trẻ chẳng già
vẫn còn khói lửa trên toà Luy Lâu(7)
hỏi ai? Ai? cướp của nhau
cảo văn? thư khố? ...ngọc châu ai giành?
cướp của người làm của mình
vốn nghề xâm lược đã thành thói quen...
tài năng cẩm tú thì- phen
còng tay- khóa- trói bắt đem công triều
thông tin bịt miệng đủ điều
cướp cướp? mất mất? bấy nhiêu phũ phàng..?
Ví như cung điện Thiên An(8)
của người Nam Việt Đình làng chế ra...
miệng đời nói ấy Trung hoa
sao không biết nói của ta đình làng?
trống đồng ta đánh lừng vang
làm sao chống được bạo tàn lắm phen
cho nên Nam Bắc trắng đen?
Kẻ quen ăn cướp... Người quen chạy dài...
ngàn năm xưa- dám nói sai?
chứng nhân- chứng vật- hình hài huyết chi..!?
giặc vào lấy hết... đem đi...
Dịch Kinh- Quốc Bảo nghiệm suy cũng là...
**
Than ôi khí vận yên hà!
hồn xửa trắc ẩn thấm xa muôn trùng
Tàng thư Nam Việt rỗng không
chỉ còn khắc quẻ trống đồng(9) làm tin...
đầu Càn “hanh lợi nguyên trinh”
Lý Càn- Nhân- Cách(10) dưỡng sinh giống nòi
ngữ ngôn “vật khí” thay lời
Đồng nhân quây lấy mặt trời đúng tâm
biểu nghi Chấm- Vạch(11) làm vần
“thụ căn diểu diểu” dương âm lập trình
cơ quyền còn chút kiện hanh
tự tôn mười tám bản danh công đường
Càn Vương tức Kinh Dương Vương
chữ đầu tiên khởi cội nguồn nước Nam
Cách nay hơn: năm ngàn năm..?
là người biến hóa tiếng tăm lẫy lừng
Khảm Vương là Lạc Long Quân
thuận hành bát quái... thuộc vần cửu cung
lại xưng... Giáp Ất... đủ vòng...
làm thành mười tám đời Hùng(12) nối nhau...
(Lần lượt- 8tự quái: Càn Vương, Khảm Vương, Cấn Vương, Chấn Vương, Tốn Vương, Ly Vương, Khôn Vương, Đoài Vương...
;10 thiên can:Giáp Vương, Ất Vương, Bính Vương, Đinh Vương, Mậu Vương, Kỷ Vương, Canh Vương,Tân Vương, Nhâm Vương, Quý Vương)
thần cơ dịch số cơ màu
“sa phù dĩ chỉ” đời sau chớ lầm...
Rõ ràng “mộc biểu thanh thanh”
“thập bát tử thành”(18) tiên tổ đã gieo?
“toàn thư sử ký” (13) cũng nêu
“đông a nhập địa”... gặp nhiều tai ương!
cho hay khí dịch đoạn trường
phải chờ “ma quỷ dọn đường” (14) loé ra..?
**
Xem thêm dã sử nước nhà
“Lĩnh Nam chích quái” (15) truyền qua miệng đời
dân man hay bị lọc lòi
quỷ ma xâm hại buông lời rủ rê
Long Quân thường phải trở về
cứu dàn con dại trăm bề khốn nguy
diệt xương cuồng diệt hồ ly(16)...
nạn từ phương bắc chi chi... thực thà...
**
ngàn năm xưa ngỡ rất xa
chẳng qua khép lại bóng qua một ngày
luận thời ai biết ai hay
tháng năm con cháu ngày rày đã quên..!
văn nhân sĩ tử mọi miền
hãy đem chớp mắt nối liền ngàn năm
mới hay Kinh Dịch trữ tàng
gốc từ bảo khí Hồng Bàng Rồng Tiên!?
----------------------------------------------------(P.V.H)*

Chú thích: (1)Nguyên văn Sấm Trạng: “Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật- 創九 天暗彙紅日”- trên trời sáng mà trần gian hàng ngày sao tối tăm thế!; (2)Sấm Trạng: ý nói trời mở cơ làm thiên hạ mù mịt, không rõ lối mà đi, người dân như lâm vào mê cung; (3)Lời dạy của Khổng Tử :“ôn cố tri tân, khả dĩ vi sư- 瘟故知新 可以為師”: thông hiểu sử sách, việc cũ để biết cách thức hệ quả... nên làm thời nay, việc mới ra sao? thì có thể làm thày; (4)Một đoạn mở đầu trong một bài Sấm Trạng Trình; (5)Năm 221TrCN Tần Thủy Hoàng kiêm tính 6 nước gồm: Sở, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên- thống nhất Trung Quốc quy mô khoảng gần 4 triệukm2; (6)Cửu Chân chỉ Thanh Nghệ ngày nay;Tống Bình chỉ đất Hà Nội tên gọi thời cổ khoảng năm 800 TrCN; (7) Luy Lâu tên cổ chỉ Bắc Ninh ngày nay; (8)Cung điện lớn nhất của Trung Quốc xây dựng vào thời Minh khoảng thế kỷ XIV, do Nguyễn An- một thợ cả tài hoa của Việt Nam bị giặc Minh bắt- ông làm tổng công trình sư thiết kế và xây dựng (cùng hàng vạn thợ thủ công khéo tay, các thầy thuốc giỏi, nhântài, và con gái đẹp... bị bắt về phương bắc, lại cho mang đi hoặc đốt hết tàng thư di cảo Việt Nam và nhiều việc bẩn thỉu khác..); (9)Bát Quái được cho là đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ- Hoàng Hạ thuộc văn hoá Đông Sơn Việt Nam, các nhà khảo cổ tìm được ở Thanh Hoá, đồng bằng Bắc Bộ; (10) Trên trống đồng có khắc các quẻ Thuần Càn, Đồng Nhân, Cách- đúng như nhà NC Nguyễn Thiếu Dũng xác định; (11)Thực chất ký quái đầu tiên là Chấm và Vạch, biểu nghi hai khí Âm- Dương, khi viết nhuận tay hơn, nhưng sau này người ta (có thể là Văn Vương) thấy nét chấm dễ bị mờ khuyết, mới đổi chấm sang vạch đứt; (12)Theo phả tịch Đền Hùng còn ghi đến nay đủ 8 quái và 10 thiên can; khởi từ Kinh Dương Vương tức Lộc Tục ở ngôi 86 năm, truyền không rõ bao đời (từ Nhâm Tuất 2879tr.CN tới Đinh Hợi 2794tr.CN) miếu hiệu Chi Càn Vương là chi đầu ngang với thời Tam Hoàng cổ đại ở phương bắc; Hùng vương thứ 18 là Hùng Duệ Vương (từ Quý Dậu 408tr.CN tới 258tr.CN) miếu hiệu Chi Quý vương, ngang với năm thứ 17 đời Uy liệt vương và năm thứ 56 đời Chu Noãn vương nhà Đông Chu (biết rằng thời Hùng Vương vẫn sùng đạo Mẫu hệ nên có cách “truyền ngôi theo huyết thống trực hệ và- huyết thống liên chi”- tức là khi truyền theo trực hệ mà hết người nối rõi, thì tìm người chi khác mà truyền để tiếp tục, do vậy một đời Vua Hùng mới hàng mấy trăm năm kéo dài... mà các sử gia thời hiện đại không lý giải được rồi cho là không có cơ sở? than ôi sử gia mà không biết gì cả vậy! buồn thay, buồn thay!!). . Để chống lại giặc Bắc Tần Thủy Hoàng, và nghe lời Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn (con rể Vua) nhằm đoàn kết nội bộ Vua (Hùng Duệ cuối cùng, chỉ sinh con gái) đã nhường ngôi cho Thục Phán, là cháu trong nội tộc đang làm bộ chúa Tây Vu. Thục Phán, cảm kích làm cột đá thề giữ vững sơn hà xã tắc đời đời thờ phụng các vua Hùng; rồi lập nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa và lên ngôi, xưng là An Dương vương. (13)Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, viết vào thời Lê Thánh Tông (1460-1497); (14)Sấm Trạng Trình nguyên văn “trời sinh lũ quỷ dọn đường, để cho thánh xuất khảm phương sau này”; (15)Lĩnh Nam chích quái: truyện cổ dân gian Việt Nam tác giả là Nguyễn Qùynh và Kiều Phú biên soạn vào thế kỷ XV có viết “Than ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá, viết vào tre, mới là quí hơn bia miệng đâu? từ đứa trẻ hoi sữa đến cụ già bạc tóc, đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu, để tỏ ý chê trách thì tất là có quan hệ tới cương thường phong hóa..!”; (16)Truyện xương cuồng tức là Mộc tinh, Hồ ly tinh, Ngư tinh, là những truyện trong Lĩnh Nam nói về công lao của thuỷ tổ Việt Nam.
-------------------------------------------------------------------------(PVH)*

Phạm vũ Hội:
Truyện phụ thêm:

Đã từ lâu, nhiều người cứ băn khoăn về câu hỏi tại sao xưa các “bậc Nam kiệt” cứ gọi người phương bắc, các “bậc hảo Hán” tức người Tàu là “Các chú”- lúc sẵng giọng thì “ôi dào! bọn các chú” có nơi chuyển âm thành “cắc chú”, chê họ thâm hiểm; Lại nhớ rằng hồi nhỏ nghe các vị túc nho rành rọt chữ nghĩa kể về chuyền tiên tổ Hồng Bàng mới biết rằng sở dĩ gọi như vậy là vì người Nam và người Bắc vốn tổ tiên xưa cũng là anh em, mà người Việt là anh và người Tàu là em đích thị. Cụ thể là cháu ba đời của Viêm Đế- Thần Nông theo lệnh trời, và cha mình làm Vua toàn cõi, khai sinh loài người, theo lời cha dặn dạy giống người da vàng phương đông trồng lúa- Ngài Biểu danh là Đế Minh. Ngài lấy bà Vụ Tiên- một vị nữ tiên ở thượng giới, sinh được hai người con trai, lớn là Lộc Tục, nhỏ là Lộc Linh. Khi già về trời, Đế Minh định truyền ngôi cho con trưởng là Lộc Tục, làm vua phương Bắc, cho Lộc Linh làm vua phương Nam. Nhưng Lộc Tục nói với cha, phương Nam nóng nực, có nhiều chướng khí, đất đai hẹp hơn, dân sự ít lại ham chơi, xin nhận khó khăn làm vua thay em, để Lộc Linh kế ngôi ở phương Bắc, đất đai rộng lớn, dân sự phồn thịnh hơn, thuận tiện cho em hơn. Đế minh cho là người nhân hậu, ngài chấp nhận. Sau đó Lộc Linh lên ngôi làm vua phương bắc, trông coi từ tả ngạn sông Trường Giang trở lên, lấy hiệu là Đế Nghi. Lộc Tục làm vua phương Nam, từ hữu ngạn sông Trường Giang trở xuống, thủ phủ ở Động Đình Hồ, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, Miếu hiệu là Càn vương, Ngài hay đi đây đó, sống rất phóng túng, biến hóa không biết đâu mà lường. Ngài lấy con gái Thần Long Động Đình hồ mà sinh ra Sùng Lãm, Lãm kế ngôi, tự xưng là Lạc Long Quân, tài giỏi như cha, đi dưới nước như đi trên cạn, Miếu hiệu là Khảm vương... nghi biểu theo quái dịch. Sau Lạc Long Quân lấy con gái Thần Núi Đế Lai là bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng nở ra trăm người con trai... là tổ tiên người thuần Việt ngày nay...
Nhiều lần tôi kể lại và giải thích cho mọi người nghe, cố tìm trong sách để dẫn, nhưng các sách thông sử thời nay viết về Hồng Bàng thị lại nói, Lộc Tục là em, Đế Nghi là anh? thậm chí không có cả cái tên “Lộc Linh”. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” của Viện Văn học giới thiệu- 1965, tái bản lần thứ 2 năm 2004- nhà xuất bản VHTT; Sách “Lĩnh Nam chích quái” xuất bản 1990- nhà xuất bản văn học, cũng nói vậy! tôi cứ băn khoăn mãi!.. Tết 2010, đi du xuân, thắp hương Đền Hùng, tôi mua quyển “truyền thuyết Hùng Vương- thần thoại vùng đất Tổ” do Vũ Kim Biên sưu tầm biên soạn, xuất bản 2008, tôi thấy câu chuyện trở lại đúng với truyện hồi nhỏ tôi được nghe... Vậy là hơn 50 năm mới thấy mình không phải là ốc xạo với bạn bè con cháu. Ôi! Dã sử vẫn có giá trị ở chỗ đó! thiện tai, nam mô phật!.
-------------------------------------------------------------------------------------------(PVH)

Phạm Vũ Hội

Sấm Trạng Trình:thiên cơ tuy bất tiết, bất tức đắc ngôn nhiên
天幾雖不絏不息得言然,
xin hiểu là:
thiên cơ tuy không được tiết lộ, nhưng thực chất có thể...
nhưng không tiết lộ theo cách nói thông thường”


Tri nghiệm Sấm Ký Trạng Trình
có bài ca chiêm rằng:
---------

À.. ơ!
chừng ai qua đất Thương Khâu(1)
xuôi về Đông Hải(2) nhắc nhau đôi lời
mênh mông biển cả đầy vơi
dây văn dây vũ... rạch ròi đã quen...
hóa phong thắm đỏ hoa đèn
thiên cơ dịch khí mọi miền đã gieo
bão giông ai vững tay chèo
“đáo tầm sử địa...”(3) căng lèo thửa nên...

“đế cư định tại thư thiên” (4)
sơn hà xã tắc tổ tiên khơi dòng...
vẫn thì núi Tản non Nùng(5)
mười tám Đời Hùng cháu cháu con con...
chữ rằng: non nước nước non
tổ tiên tiên tổ(6)...mãi còn dài lâu
À ơ!
dù ai buôn đâu bán đâu
đến ngày giỗ Tổ bảo nhau mà về(7)
dù ai vàng ngãi bộn bề
nhớ cha nhớ mẹ mau về hỡi con..!
À.. ơ!
“nó lú thì chú nó khôn” (8)
một vầng sinh thái vẫn luôn tươi nhuần
“nguyên hanh trinh lỵ” (9) - dụng tâm
“trí tri cách vật” (10) hồi lần mới ra
chừng ai dấy loạn can qua?
chừng ai quấy đảo sơn hà đòi phen?
hải hồ sửa cấy giáp tên
cơ quyền lắm bận chinh yên đã từng(11)...
À.. ơ!
vang vang ấy tiếng trống đồng
âm âm ấy tiếng binh nhung dậy trời
“tốn” cung ấy chốn à ơi...
từng phen triệt phá chôn vùi bóng “khôn”
quái trời nắng gió tròn vuông
“tốn khôn” (12) ngũ quỷ chuyện buồn lắm thay!

mấy phen mặt dạn mày dày
hùng binh xâm phạm thửa ngay bóng chồn(13)
bon chân ngựa đá tung bờm
Kim Âu non Việt phú thơm để đời(14)
bằng chừ! chén rượu làm vui
chả chi thù tạc dập vùi mà thương!

đừng nên bá đạo đồ vương
thửa sinh cái nết chết trương chẳng chừa(15)...
biển Đông vốn vẫn biển xưa
dịch Nam khí Bắc gió lùa vẫn Nguyên(16)
ngõ hầu từ thuở tiên thiên
một vùng Đông Á nghề riêng cũng từng...
cờ đi xe chạy thì hung
anh hùng lại nẩy anh hùng thì phen...
chỉ buồn con đỏ con đen(17)
nghiêng trời lệch đất nổi chìm khốn thay
xanh kia thăm thẳm cao dầy
cuồng phong chiến nọ trận này vấn vương
À.. ơ!
rày ai gây cảnh chiến trường
người thua kẻ thắng mối giường lặng đau(18)
ngàn năm trước ngàn năm sau
vẫn là hai tiếng: hây tàu..! hầy ta..!
vẫn là Trác Việt- Lục Hoa(19)
vẫn là khí mạch sơn hà rạch ngang...
hỏi ai thấu lý Khôn Càn(20)
cát hung phù dịch mênh mang cõi trời
chỉ khi nhắm mắt lìa đời
mới hay thiên mệnh vận thời song song...
“kê lai hầu đáo...” (21) thửa chưng
“chính kỳ phân vị... ” (21) cũng mong rõ ràng...
nhắn ai uống nước nhớ nguồn
“nuôi ong tay áo” (22) thì buồn lắm thay!
“cáo trong nhà” (23) đấy vẫn đây
sáu trăm năm cũ chửa hay cũng đành
“ưng phòng hậu họa...” (24) phù kinh
lời truyền nhắn nhủ hư danh chớ màng
À.. ơ !
“nước non từ thuở Hồng Bàng
bể dâu cuộc thế...” (25) tính toan cũng nhiều
cũng nhiều cũng bấy cũng nhiêu
Bắc Nam chiến họa... ai điều họa ai?
Sấm rằng:
“Nước Nam thường có thánh tài(26)...
Sơn hà vững đặt mấy ai tỏ tường
Kìa Nhị Thủy(27) nọ Đao Sơn(28)...
Bãi Ngọc(29) đất nổi Âu Vàng(30) trời cho...

Học cách vật(31) mới dò tới chốn...
chép ghi làm một bổn xem chơi
muôn việc cũng bởi tại trời
suy thông mới thấy sự đời nhường bao!”
----------------------------------------------------------(P.V.H)

Chú thích: (1)-Thương Khâu- một địa danh ở nước Lỗ (TQ) 770-450 tr.CN, thời Xuân Thu, nay thuộc đất Trịnh Châu. (2)- Đông Hải- tức Biển Đông thuộc Việt Nam ngày nay, trước gồm cả đảo Hải Nam từ thời Triệu Đà Lập nước Nam Việt- xưng Nam Việt Vũ Vương 207trCN, thời Tần Nhị Thế gồm cả vùng Lĩnh Nam. (3)- Sấm Trạng nguyên văn: “hữu tình hữu thủy thực chi danh, mã ngưu chi tuế thị rành rành, can qua trư thử giang đông xuất, đáo tầm sử địa ngộ minh quân- 有 情 有 始 食 之 名.馬 牛 之 歲 視 伶 伶.干 戈 豬 鼠 江 東 出.到 尋 史 地 悟 明 君- hiểu rằng có tình có nghĩa đó là chính danh, tức có nguồn cơn thì ai ai cũng đã biết; từ năm 2002 tới 2009 đã bắt đầu đôi co thấy rõ, can qua 2007- 2008 chiến tranh xuất hiện (giữa VN và TQ về biển Đông)- chỉ có ngược dòng lịch sử mới phân định được trắng đen phải trái vững chủ quyền minh quân sáng suốt (4)- Nguyên văn: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư, hiệt nhiên phân định tại thiên thư, như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, nhữ đẳng hành khan thủ bại hư- 南國山河南帝居 .頁然分定在天姐 .如何逆鹵來侵犯 .女等行看守敗噓-Là tuyên ngôn đầu tiên của Việt Nam, được cho là của Lý Thương Kiệt, một danh tướng thời Lý (1010-1225). (5)- Núi Tản tức núi Tản Viên có thờ Thần Tản Viên một thượng đẳng thần khai sinh nước Việt- ngài tên thực là Nguyễn Tuấn cũng tức là Sơn Tinh; non Nùng là đất Hà Nội ngày nay. (6)- Lấy ý từ câu đối của nhà thơ Tản Đà “Tiên tổ tổ tiên tiên tổ cũ; nước non non nước nước non nhà” dâng lên Đền Hùng nhắn nhủ rằng: tiên tổ nước non là một sự thống nhất có ngọn nguồn. (7)- Nguyên văn: ca dao “dù ai đi ngược về xuôi, nhớ về giỗ Tổ mồng mười tháng ba, dù ai buôn bán đâu xa, nhớ về giỗ Tổ tháng ba mồng mười. (8)- Ngạn ngữ Việt: ý nói người này có kém cỏi bất tài nhưng còn người khác chẳng kém cỏi như thế! Anh kém thì... em chăng? Già kém... thì trẻ chăng? (9)- Chỉ “tính dịch” của quẻ Càn nguyên văn: “Càn, nguyên hanh lỵ trinh- 乾元亨利貞“ quẻ đầu tiên trong bát quái (quái cũng gọi là quẻ). (10)- hai điều trong tám điều (bát mục tam cương) do Đức Khổng Tử nêu dạy, mà con người cần nắm bắt tự tu; Trí tri: là sự biết và sự hiểu đến cùng tận; Cách vật: là nắm được quá trìng vận động, trạng thái sự khởi đầu và kết thúc của muôn vật muôn việc... (11)- Nước Việt Nam từ khởi Tổ Kinh Dương Vương- Lạc Long Quân nhiều phen chống xâm lược đếu chủ yếu họa từ phương Bắc, khí Bắc nhưng gặp dịch Nam đều được hóa giải. (12)- Tốn, cư cung của Việt Nam, Khôn, cư cung của Hán Hoa, theo quái dịch Tốn- Khôn sinh ngũ quỷ, Tốn hoá giải được Khôn nhưng hay bị Khôn làm hại... Lịch sử minh chứng từ xưa y mực hệt. Người Trung Quốc xân lược phương Đông phương Nam thì không thể vững, Asean đoàn kết có thể đánh bại các ý đồ bất thiện của Trung quốc muốn bá chủ bá quyền, muốn biến các nước nhỏ thành sân trước sân sau của mình. (13)- Giặc phương Bắc kéo xuống phương Nam thường bị đánh và bỏ chạy. (14)- Thửa ý theo câu thơ của Vua Trần Nhân Tông “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, sơn hà thiên cổ điện kim âu- 社則兩回勞石馬 .山河千古殿 金甌”. (15)- Các nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay chủ trương bá đạo trong thời kỳ mới với một nền kinh tế và quân sự hùng mạnh trong điều kiện cực quyền với từ ngữ che đậy “trỗi dậy hòa bình” sẽ là một sai lầm dẫn tới phát xít hóa làm hại chính dân tộc minh. (16)- khí lạnh từ phương bắc “địa khí” tràn xuống phương nam gặp khí nóng “thiên khí” hóa dịch bệnh, chủ họa hại hủy diệt, biến ngẫu. (17)- Con đỏ con đen: ám chỉ lê dân, bách tính, trăm họ, trong sự trói trịt của pháp trị cực quyền. (18)-người dân bị kẻ cầm quyền ra lệnh, như đàn dê theo con đầu đàn. Sấm dạy: “dê đi dê lại tuồn luồn, đàn đi nó cũng một muôn phù trì” vì thế đi xâm lược nước người rất vô lý mà vẫn đi? sinh ra người thua kẻ thắng, tạo thành thù hận, khi chưa có dân quyền tự do nên khó hóa giải, phản đối thì bị truy chụp, làm mất thiện khí và đau lòng người. (19)- Chỉ dân tộc Việt Nam và Trung Hoa. (20)- Lý Học xuất từ Càn Khôn: “Càn nãi thiên chi thống, Khôn nãi thuận vi thiên- 乾乃天之統.坤乃 順 為天“: phương tây ứng Càn, phương đông ứng Khôn. Hãy hiểu ra rằng: phương đông mà thuận với phương tây sẽ làm được cái việc sinh khí ở thế gian, thái bình thịnh trị, thế giới sẽ mau mắn (như người vợ theo người chồng, âm theo dương) ngược lại sẽ tranh hành loạn lạc mà lịch sử đã hiển hiện xưa nay rất rõ- đây là bí mật thiên cơ- độn thấy rằng: nay có thể nói ra được!. Dịch nói: Càn: nguyên hanh lỵ trinh, Khôn: nguyên hanh, lỵ tẫn mã chi trinh- 乾:元亨利貞-坤:元亨.利牝馬之貞“- tức Càn là trời, gốc của sự sáng, sự trong sạch, lợi cho muôn loài, Khôn thuận theo cũng sẽ làm được cái việc của trời như thế, như con ngựa cái theo con ngựa đực mà làm cái việc sinh thành dâng tràn dịch khí đến cùng cực, lợi đến muôn dân rộng khắp; khác đi Khôn chỉ trùng trục như con trâu cái hung hăng khó bảo, có thể gây họa..! đến mê muội ngu độn.. Cho nên phương tây (và một phần cực bắc) luôn đi đầu trong khoa học kỹ thuật phát minh sáng chế, làm ra máy móc, thiết bị, ánh sáng, linh kiện điiện tử ứng dụng... vân vân... phương đông chỉ học theo (cả ăn cắp, bắt chước...) mà làm thì có thể khéo léo hơn, lịch sử cũng đã chứng minh y mực hệt (như TQ ngày nay là đại công xưởng của TG); đủ cơ sở minh giải cho cuộc tranh luận gần đây trong giới báo chí hỏi rằng tại sao Trung Quốc chi ra nhiều tiền cho khoa học kỹ thuật mà ít có phát minh đủ tầm của trao giải Nobel. Minh chứng: hơn 2000 người được trao giải Nobel từ giữa thế kỷ XX đến nay thì 97% là người gốc ở phương “tây- tây bắc”- chỉ 3-4% là người gốc ở phương đông, nhưng những người này cũng đã phải cư trú hoặc có môi chứng tại phương “tây- tây bắc”. Cho nên có thể nói “trái đất cũng có đầu”. Sấm Trạng Trình có câu “đoài phương phúc địa giáng linh” hoặc “người đoài ấy cũng thực tài, mà cho người sở toan bài lập công” là cái ý như thế! người đoài lài người p.tây, cũng thực tài đấy! sao ta lại xua họ đi mà để cho người phương đông toan lập công? người sở là người p.đông (ám chỉ...ai- giờ ta đều biết!)- lại dạy “hiểu xuôi cũng được ngược thời mới nên!” cũng là ý ấy cả, tức hiểu ngược ta mới tri nghiệm sự đúng thuộc về khí dịch thiên cơ, thuộc về trời..! Ta cũng xem: thế kỷ XXI người phương đông đua nhau sang phương tây học tập rồi từ đó trở về phương đông làm cho phương đông phát triển rực rỡ- cho nên cần biết ơn phương tây và không nên cạnh tranh theo kiểu thiếu văn hóa với phương tây. (21)- Sấm Trạng nguyên văn: “hầu đáo kê lai vị chính kỳ, quốc dân hãm nịch quốc dân di, dân dã dục dĩ chu như tống, phong nghĩ tung hoành thị mạc phi, thượng huyển hạ đảo nhân vô thủ, tài tận tâm hao thế lực suy, huyết chiến dê đàn nhân huyết chiến, kham tiếu không huyền tiệm thất ky-猴 到 雞 來 位 政 旗.國 民 陷 惄 國 民 移.民 野 欲 已 朱 如 宋.蜂 蟻 鏦 珩 視 抹 誹.下 懸 上 倒 人 旡 首.才 尽 心 耗 勢 力 衰.血 戰 羝 壇 因 血 戰.堪 笑 空 弦 漸 失 箕“- tức là năm hầu qua năm kê (79-80-81), phân biệt mằu cờ sắc áo dân đen bị bức hãm mà di tản, nhưng là dân thì nhà chu nhà tống cũng vậy thôi! cuộc sống yên thân kiếm ăn là được; con ong cái kiến giặc giã đâu có coi trọng tiếng thị phi? mọi thứ đảo lộn dưới trên, chiến tranh tiếp tục là nguyên nhân của chiến tranh huyết chiến. nực cười cho nhân thế như cây đàn đứt giây! Thiên cơ lạc phách. (22)- Ngạn ngữ Việt khi Lê Quý Ly cướp ngôi nhà Trần mới lộ là Hồ Quý Ly, bấy giờ dân ta mới có câu “nuôi ong tay áo nuôi cáo trong nhà”- không biết rằng âm khí nuôi dưỡng ngay trong lòng non sông đất nước. (23)- ý nói vẫn lảng vãng khí dịch phản trắc khi là cư dân nước Việt- ngược lại dân Việt vẫn cả tin, nhưng cũng là vận thời. (24)- Nguyên văn 2 câu trong một bai thơ của Trạng Trình “trùng hưng dĩ bốc độ giang mã, hâu họa ưng phòng nhập thất khu- 重興已卜度 江馬後禍 應防入七區“ ý rằng hưng dực có thể vào năm Ngọ (2014),, nhưng khí quái đã xông tận cung đình tới bảy phần!? (25)- Nguyên văn Sấm Trạng Trình “nước non từ thuở Hồng Bàng, bể dâu cuộc thế giang san đổi vần...”. (26)- Một đoạn mở đầu trong một bài Sấm Ký của Trạng Trình- biết nước Nam ta luôn có thánh tài. (27)- Nhị Thủy- là hai vùng tụ thủy của đất nước Việt Nam ta gồm đồng băng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, lưu vực của 2 con sông lớn làm thành hai vựa lúa của đất nước (mà trước nay các bậc túc nho thức giả vẫn hiểu nhầm là chỉ sông Nhị Hà tức Hồng Hà). Vậy là Đức Trạng Trình (1491-1585) đã biết rõ vùng Chiêm Thành, Chân Lạp vận thế sẽ thuộc Việt Nam. (28)- Đao Sơn: chính là dãy núi Trường Sơn chạy dọc tận hoành sơn như một lưỡi đao, cái xương sống của Việt Nam ta (trước nay các bậc túc nho thức giả không rõ cứ hiểu nhầm là 2 chữ Đảo Sơn, rồi cho rằng Trạng nói đến đảo Côn Lôn ở ngoài biển khơi phía Đông đất Nam Bộ). (29)- Bãi Ngọc- Chính là Hoàng Sa và Trường Sa gồm nhiều bãi đá ngầm ngoài khơi mà Chủ Quyền Việt Nam đã thực hiên từ thời Gia Long phục quốc 1802. (30)- Âu Vàng chính là toàn bộ Biển Đông cùng hải đảo mà Việt Nam giữ vững chủ quyền, hình ảnh như một cái Âu đựng nước dân ta vẫn dùng. (31)- Cách vật- đã giải thích xem mục (10), vận này hiểu ra? mới có thể “...bấy giờ quét sạch thú ly”./.
----------------------------------------------------------------------(18/4/2010-PhạmVũHội)
(Bị chú: đã tải ở dienbatn blog)